Thực dân Pháp xâm lược và cai trị nước ta suốt gần thế kỷ dưới chiêu bài “khai hoá văn minh” đã thực thi chính sách “chia để trị” rất thâm độc, hòng khoét sâu thêm những dị biệt vốn có, làm cho các mâu thuẫn và những xung đột nội bộ trong lòng dân tộc Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt. Từ đó làm cho khối đoàn kết dân tộc của người Việt Nam không thể khôi phục và phát triển.
Trước hoạ xâm lăng, các sĩ phu yêu nước Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám... đã không ngừng kêu gọi lòng “ái quốc”, “đồng tâm” để thức tỉnh ý thức dân tộc và lòng yêu nước của các giai tầng trong xã hội Việt Nam lúc đó. Song, phong trào Cần vương đề cao vai trò của sĩ phu phong kiến; cụ Hoàng Hoa Thám đề cao vai trò của giai cấp nông dân; hai cụ Phan đề cao lực lượng sĩ phu yêu nước thức thời. Phan Bội Châu xác định 10 hạng người của cách mạng nhưng chưa đề cập đến vai trò của công - nông. Việt Nam quốc dân Đảng đề cao trí thức Tây học… Vì vậy, đã không thu hút hết thảy lực lượng quần chúng tham gia, chưa phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Không đi vào “vết xe đỗ” của các vị tiền bối, sau bao năm bôn ba tìm đường cứu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Năm 1924, Người từ Liên Xô về Quảng Châu, Trung Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, quy tụ những thanh niên ưu tú, mở lớp huấn luyện, đào tạo họ thành “hạt giống đỏ” cho cách mạng Việt Nam. Người đã chỉ ra: “Kách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”.
Sau các khoá đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, những thanh niên này cơ bản trở về nước, đi vào quần chúng để thức tỉnh, tổ chức, đoàn kết nhân dân đứng lên đấu tranh. Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam cuối năm 1929 đầu năm 1930 đã phát triển rất sôi nổi, đòi hỏi phải thành lập Đảng Cộng sản để đưa phong trào cách mạng tiến lên. Đáp ứng yêu cầu đó, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ba tổ chức cộng sản ra đời đều đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử và đi đúng quỹ đạo của thời đại. Nó đã thổi một luồng gió mới vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Các chi bộ của các tổ chức cộng sản đã trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh của quần chúng ở nhiều nơi. Tuy vậy, ba tổ chức lại hoạt động riêng rẽ, công kích, tranh giành ảnh hưởng của nhau, dẫn đến tình trạng mất đoàn kết, cản đường phát triển của phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam. Lợi ích của dân tộc và nguyên tắc tổ chức của một chính đảng theo Mác-Lênin không cho phép tồn tại sự phân hoá tán lực lượng như vậy, cho nên việc thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng thống nhất là nhu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam đặt ra lúc đó.
Đáp ứng yêu cầu lịch sử, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời xuất hiện. Với uy tín và tài năng của mình, Người đã đứng ra thống nhất các tổ chức cộng sản và lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gạt bỏ các bất đồng “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương” - hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đem đến cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc vào năm 1945.
Ngay sau khi Đảng ra đời, một cao trào cách mạng sôi nổi đã diễn ra trên phạm vi cả nước mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh dẫn đến sự ra đời của các làng đỏ Xô Viết. Trong cao trào cách mạng này “công nông đã bắt tay nhau giữa trận tiền” - yếu tố nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc đã hình thành trên thực tế. Song, yếu tố này vẫn chưa đủ để tạo ra và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc nên các phong trào cách mạng đều bị thất bại.
Trước sự thay đổi của tình hình trong nước và thế giới, Đảng Cộng sản Đông Dương đã phát động cao trào vận động dân chủ thời kỳ 1936 - 1939, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đổi mới mạnh mẽ công tác vận động và tổ chức quần chúng. Vì vậy, một cao trào đấu tranh mạnh mẽ dâng cao khắp cả nước, lôi cuốn không chỉ hàng triệu quần chúng công nhân, nông dân tham gia mà còn quy tụ những tầng lớp yêu nước khác như: trí thức, tiểu thương, tiểu chủ, địa chủ, thân hào và tư sản dân tộc... Khối đoàn kết dân tộc thời kỳ này được mở rộng và củng cố thêm một bước. Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã chủ động bắt tay liên minh với một số tổ chức yêu nước, tiến bộ khác. Tuy vậy, thời kỳ này thiên về đấu tranh giai cấp, màu sắc về đấu tranh dân tộc còn mờ nhạt. Vì vậy, việc đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện mục tiêu giải phóng nhân dân ra khỏi ách thực dân, phong kiến vẫn chưa thực hiện được.
Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, tình hình quốc tế và trong nước chuyển biến hết sức mau lẹ và sâu sắc. Đánh giá đúng xu thế của thời cuộc, Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược phù hợp với tình hình. Cũng thời gian này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau ba mươi năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài đã trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII năm 1941, hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị khẳng định: “... cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Do vậy “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”. Để phát huy tối đa sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, Hội nghị chủ trương đặt mục tiêu của cuộc cách mạng trong phạm vi từng dân tộc ở Đông Dương để xem xét và giải quyết một cách cụ thể.
Một trong những quyết định quan trọng nhất, trực tiếp liên quan đến việc củng cố khối đoàn kết dân tộc, chuẩn bị lực lượng toàn diện cho cuộc vùng lên tự giải phóng, chính là quyết định thành lập mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh (Việt Minh). Trong tuyên ngôn của mình, Việt Minh tuyên bố: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Hội nghị Trung ương 8 của Đảng và sự ra đời của mặt trận Việt Minh đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đường lối lãnh đạo cách mạng, đã mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ và phát huy cao độ nội lực dân tộc cho một cuộc hồi sinh vĩ đại. Lần đầu tiên chủ trương đoàn kết dân tộc của Đảng được đặt trên cơ sở của chính chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Chủ trương này được thực hiện nhất quán trong công tác vận động quần chúng của Đảng. Các đoàn thể trong mặt trận Việt Minh đều được gọi là Cứu quốc hội. Trong các tài liệu tuyên truyền hàng ngày, nhất là các tài liệu do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo đã thay thế lời kêu gọi đoàn kết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Các biểu tượng như: “con Rồng cháu Tiên”, Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Lam Sơn, Bạch Đằng... đã được tôn vinh để cổ vũ tinh thần yêu nước và ý thức đoàn kết dân tộc.
Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, thông qua Việt Minh, dân tộc ta không những đã được đoàn kết, tập hợp dưới ngọn cờ Việt Minh mà lần đầu tiên còn biết cách đoàn kết có hiệu quả cao nhất. Mặt trận Việt Minh ra đời đã nhanh chóng trở thành hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc. Lực lượng cách mạng đứng dưới ngọn cờ đại nghĩa của Việt Minh ngày càng được mở rộng và phát triển không ngừng.
Mặt trận Việt Minh ra đời - tổ chức có độ cố kết tinh thần dân tộc bền vững không chỉ dựa trên tinh thần yêu nước mà còn dựa trên những quy tắc tổ chức giản đơn nhưng rất chặt chẽ. Mặt trận Việt Minh không chỉ làm cho khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng, củng cố không ngừng mà còn là phương tiện nâng lực lượng của khối đại đoàn kết ấy lên gấp bội, thông qua việc biến khối đại đoàn kết ấy thành một tổ chức có sức chiến đấu cao.
chủ tịch chí minh khẳng định đoàn kết sức mạnh dân tộc tổ quốc tinh thần sôi nổi đúc kết thành công
Số: 71-TB/ĐU
Ngày BH: (08/09/2020)Số: 56-BC/ĐU
Ngày BH: (07/09/2020)Số: 58-TB/ĐU
Ngày BH: (10/07/2020)Số: 01-QĐ/ĐU
Ngày BH: (01/07/2020)Số: 42-TB-ĐU
Ngày BH: (18/05/2020)
Ý kiến bạn đọc