ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM

80 NĂM GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC – BÀI 4: ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN

  • 04/09/2025
  • 0
  • 34 Views

Gắn liền với tiến trình đổi mới của đất nước, từ năm 1986 đến nay, Giáo dục Việt Nam đã không ngừng nỗ lực đổi mới. Không chỉ vượt qua được những thách thức do bối cảnh kinh tế – xã hội đất nước gặp nhiều khó khăn tại thời điểm đó, giáo dục tiếp tục có những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Mở đường cho xã hội hoá giáo dục

Giai đoạn 1986-2000 là chặng đường lịch sử đầy biến động, chứng kiến cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và nền giáo dục nước nhà.


Thủ tướng Phạm Hùng với thầy, cô giáo và các em học sinh trong đoàn dự thi quốc tế tiếng Nga tại Liên Xô, Toán tại Cuba và Vật lí tại CHDC Đức ngày 17/9/1987, tại Phủ Chủ tịch

Trong bối cảnh tình hình kinh tế – xã hội đất nước gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, coi giáo dục là một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp đổi mới chung. Đại hội cũng xác định phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở đường cho xã hội hóa giáo dục.

Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 6 Khóa VI (1989) đề ra chủ trương đa dạng hóa hình thức đào tạo và huy động nguồn lực xã hội, mở rộng các loại hình trường lớp ngoài công lập. Cơ chế tài chính giáo dục dần chuyển từ “nhà nước bao cấp toàn bộ” sang mô hình huy động nhiều nguồn, cho phép thu học phí.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), đường lối đổi mới giáo dục được khẳng định ở một tầm cao mới: giáo dục và đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” với nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.


Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm hỏi các cháu học sinh Trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Đắk Lắk (năm 1996)

Chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa thông qua các luật (Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật Giáo dục), tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ và minh bạch cho toàn bộ hệ thống. Nhờ đó, chương trình phổ cập tiểu học được triển khai sâu rộng, giúp giảm mạnh tỉ lệ bỏ học; nhiều đại học lớn như Đại học Quốc gia, đại học vùng ra đời; mạng lưới trường học ngoài công lập bắt đầu phát triển…

Những thành tựu đạt được trong việc mở rộng quy mô, hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa loại hình, hội nhập quốc tế đã tạo ra tiền đề vững chắc để ngành giáo dục Việt Nam tiếp tục thực hiện những cuộc đổi mới toàn diện hơn trong thế kỷ XXI.

Hướng tới nền giáo dục nhân văn, hiện đại, công bằng, hội nhập

Giai đoạn từ năm 2000 đến 2025, Việt Nam đã có những bước đi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị và xã hội, được thúc đẩy bởi quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghệ số. Trong tiến trình đó, Giáo dục Việt Nam cũng không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt, đột phá nhằm kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại.


Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gặp gỡ, trò chuyện với các em học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số tiêu biểu tại Phủ Chủ tịch (ngày 01/11/2014)

Các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước giai đoạn này đã hình thành một hệ thống tư tưởng nhất quán, có tính kế thừa và liên tục phát triển, được định hình bởi những thay đổi triết lí sâu sắc: từ cơ chế quản lí tập trung và nguồn lực chủ yếu từ ngân sách nhà nước sang một nền giáo dục được xã hội hoá; chuyển từ giáo dục trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; chuyển từ ứng dụng công nghệ thông tin đơn thuần sang chuyển đổi số toàn diện…  

Trong bối cảnh hội nhập, giai đoạn 2000-2010, ngành Giáo dục tập trung vào việc củng cố nền tảng và phổ cập giáo dục. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Đến tháng 6/2010, cả 63 tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.  

Trong công tác xây dựng thể chế, Luật Giáo dục 2005 bãi bỏ mô hình bán công, thay thế bằng dân lập, tư thục, tạo khung pháp lý cho xã hội hóa giáo dục. Giáo dục nghề nghiệp được chú trọng với Luật Dạy nghề 2006. Ở bậc đại học, tại Luật Giáo dục 2005, lần đầu tiên, khái niệm “kiểm định chất lượng” chính thức được xác lập.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

Giai đoạn 2011–2013, Việt Nam bước vào thời kỳ chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức, hội nhập sâu rộng, đối diện yêu cầu cấp bách về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 29-NQ/TW (2013) được ban hành, tạo cơ sở vững chắc cho đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trao quà cho các học sinh Trường THPT Nguyễn Gia Thiều đạt kết quả cao trong kỳ thi tuyển sinh Đại học năm 2014

Trên cơ sở Nghị quyết 29, nhiều cải cách lớn được triển khai. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, chuyển từ tiếp cận nội dung sang phát triển năng lực, phẩm chất; sách giáo khoa mới do nhiều nhóm tác giả biên soạn, triển khai từ lớp 1 (2020–2021). Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp trở thành bắt buộc. Hoàn thành phổ cập cho trẻ 5 tuổi năm 2017. Luật Giáo dục 2019 thể chế hóa kết quả này, đồng thời bổ sung quy định về chương trình, sách giáo khoa, chuẩn giáo viên và chính sách hỗ trợ học sinh khó khăn.

Trong thời gian đại dịch Covid-19 (2020–2021) diễn ra, với phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng học”, các trường học trên toàn quốc đồng loạt chuyển đổi dạy học trực tuyến. Sau dịch, chuyển đổi số trở thành định hướng chiến lược, với mục tiêu hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành, kho học liệu số và bồi dưỡng kỹ năng số cho giáo viên, học sinh. Đây là giai đoạn thử thách lớn, song cũng tạo cú hích thúc đẩy đổi mới phương thức dạy học, khẳng định khả năng thích ứng linh hoạt của hệ thống giáo dục Việt Nam trước biến động toàn cầu.

Nhiều thành tựu nổi bật qua 1/4 thế kỷ

Trong 25 năm qua, Giáo dục Việt Nam mở rộng nhanh chóng ở tất cả các bậc học. Giáo dục mầm non đạt phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, với gần 99% trẻ đi học. Ở bậc học phổ thông, phổ cập tiểu học được duy trì vững chắc, phổ cập trung học cơ sở hoàn thành trên toàn quốc và nhiều địa phương đã phổ cập trung học phổ thông. Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt. Giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh, đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn thăm các gian hàng khởi nghiệp của học sinh, sinh viên

Giáo dục đại học phát triển, số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (năm 2000) lên trên 200 (năm 2010) và tiếp tục tăng trong giai đoạn 2020–2025; nhiều trường thực hiện tự chủ, gắn kết với thị trường lao động.

Nhìn lại chặng đường 2000-2025, Giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.

Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết. Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Điều này trở thành điều kiện tiên quyết, là tiền đề vững chắc để ban hành các chính sách về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

(Tư liệu do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cung cấp)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *